Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới như sau:
1. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới (Điều 19 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
+ Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng;
+ Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam;
+ Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam;
+ Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam;
+ Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam;
+ Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam;
+ Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định như sau:
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;
Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:
Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;
Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
- Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thẩm quyền quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới quy định tại khoản 1 Điều này, có trách nhiệm xem xét việc thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và quyết định chấm dứt thực hiện khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
2. Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật (Điều 20 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới.
- Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới là một căn cứ quan trọng của việc rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật.
3. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 21 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
+ Xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh;
+ Dự báo tác động của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành đối với nữ và nam;
+ Xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm vi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
- Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, chuẩn bị báo cáo việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này và phụ lục thông tin, số liệu về giới có liên quan đến dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
- Cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung đánh giá bao gồm:
+ Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo;
+ Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo;
+ Tính khả thi của việc giải quyết vấn đề giới được điều chỉnh trong dự án, dự thảo;
+ Việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo theo các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này.
- Chính phủ quy định việc thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
4. Thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới (Điều 22 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Uỷ ban của Quốc hội phụ trách lĩnh vực giới có trách nhiệm tham gia với Hội đồng dân tộc, Uỷ ban khác của Quốc hội để thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua.
- Nội dung thẩm tra lồng ghép vấn đề bình đẳng giới bao gồm:
+ Xác định vấn đề giới trong dự án, dự thảo;
+ Việc bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong dự án, dự thảo;
+ Việc tuân thủ thủ tục và trình tự đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng dự án, dự thảo;
+ Tính khả thi của dự án, dự thảo để bảo đảm bình đẳng giới.
5. Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới (Điều 23 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới.
- Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới được đưa vào chương trình giáo dục trong nhà trường, trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cộng đồng.
- Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới thông qua các chương trình học tập, các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và các hình thức khác.
6. Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới (Điều 24 Luật Bình đẳng giới năm 2006)
- Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới bao gồm:
+ Ngân sách nhà nước;
+ Đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân;
+ Các nguồn thu hợp pháp khác.
- Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới phải đúng mục đích, có hiệu quả và theo quy định của pháp luật.
Phương Thành