TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Thành phố Hải Phòng

Thời gian: 29/12/2023 10:55

Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang xây dựng phục vụ cho yêu cầu bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy chủ quyền Nhân dân và kiến tạo phát triển xã hội. Theo đó, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải luôn bảo đảm các đặc trưng: trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thứ hai, quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân, luôn thống nhất, được tổ chức khoa học, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; thứ ba, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm, bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân; thứ tư, cơ quan lập pháp hoạt động chuyên nghiệp và hiệu quả; hoạt động của cơ quan hành pháp phải công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hành động, kiến tạo phát triển, phục vụ tốt; cơ quan tư pháp liêm chính, độc lập trong xét xử; bảo đảm quyền tiếp cận công lý; thứ năm, hệ thống pháp luật dân chủ, văn minh, tiến bộ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; thứ sáu, văn hóa pháp lý, văn hóa pháp quyền luôn được coi trọng và phát huy sâu rộng; thứ bảy, Nhà nước thực hiện tốt các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế.

Nói về hoạt động giám sát có giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội... Hiện nay, chúng ta đã có Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Trong đó, giám sát văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là một trong những hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thời gian qua đã đạt những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, hoạt động này còn có bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Quốc hội “giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân  tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; giám sát tối cao nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.

Kết quả giám sát cho thấy, các văn bản được giám sát cơ bản tuân thủ các quy định về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục ban hành và bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, qua giám sát, cũng đã phát hiện một số văn bản còn có nội dung có dấu hiệu sai thẩm quyền, sai hình thức văn bản hoặc có một số nội dung chưa phù hợp với quy định của luật. Trên cơ sở đó, kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan khẩn trương xem xét, quyết định việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp.

Tuy nhiên, hoạt động giám sát VBQPPL của Quốc hội thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập. Việc giám sát VBQPPL trong một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiệu quả của việc giám sát VBQPPL chưa cao. Việc xử lý sau rà soát VBQPPL còn chậm. Kết quả rà soát văn bản chưa được kết nối, sử dụng hiệu quả trong quá trình xây dựng, ban hành các VBQPPL liên quan. Tình trạng không kịp thời ban hành VBQPPL cụ thể hóa luật, nghị quyết chưa có biện pháp xử lý một cách kịp thời, kiên quyết và thấu đáo. Báo cáo về kết quả giám sát VBQPPL chủ yếu liệt kê số lượng các loại văn bản mà các cơ quan chưa ban hành theo đúng thẩm quyền, chưa nêu ra thực trạng thiếu văn bản quy định cụ thể nào; nguyên nhân chủ quan, khách quan của tình trạng đó là gì; trách nhiệm thuộc về tập thể hay cá nhân nào; cách thức xử lý ra sao...

Những hạn chế, bất cập nêu trên là do các nguyên nhân sau:

Một là,  chưa có quy định rõ ràng để xử lý tình huống nếu phát hiện thấy luật hoặc nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp.

Hai là, chưa phân biệt rõ ràng giữa giám sát tính hợp hiến và giám sát tính hợp pháp của VBQPPL

Ba là, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng để xử lý trách nhiệm đối với việc chậm, không cụ thể hóa Hiến pháp, luật, nghị quyết

Bốn là, việc gửi dự án đến cơ quan thẩm tra, thẩm định vẫn còn nhiều trường hợp chưa bảo đảm tiến độ về thời gian theo luật định; việc cung cấp thông tin về dự án, dự thảo thực hiện chưa tốt, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra, thẩm định.

Chất lượng các phiên họp thẩm tra chưa đồng đều; thời gian dành cho thẩm tra tại mỗi phiên họp thường ngắn, số thành viên dự họp đôi khi không bảo đảm, một số trường hợp chưa đủ để có thể thảo luận sâu các vấn đề lớn và xem xét kỹ các điều, khoản cụ thể trong dự án luật, pháp lệnh và các VBQPPL khác, do đó tính phản biện trong một số báo cáo thẩm tra chưa cao.

Năm là, phần lớn đại biểu Quốc hội là kiêm nhiệm. Chỉ có khoảng 35 - 40% đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Việc tổ chức các hoạt động đào tạo, tập huấn cho đại biểu hoạt động chuyên trách còn hạn chế về thời gian và kinh phí; điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo, tăng cường năng lực cho đại biểu Quốc hội và các chuyên viên tham mưu, giúp việc còn khó khăn và chưa được triển khai thường xuyên. Các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm ở các cơ quan, địa phương khó có điều kiện tham gia sâu, đầy đủ các hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn. Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ để phát huy hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.

  Để khắc phục và nâng cao hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội cần có những giải pháp như sau:

Một là, xác định rõ tính chất, phạm vi, thẩm quyền giám sát của Quốc hội, của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cần xác định Quốc hội có quyền “giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp”, UBTVQH “giám sát việc thi hành Hiến pháp”. Trong đó, giám sát của UBTVQH là hoạt động giám sát phục vụ cho giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp của Quốc hội. Về tính chất, hoạt động giám sát của UBTVQH nhằm cung cấp dữ liệu, bằng chứng, căn cứ cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát thi hành Hiến pháp của UBTVQH dẫn đến việc đình chỉ việc thi hành những văn bản trái Hiến pháp, còn hệ quả của hoạt động giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp của Quốc hội là bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp. Bên cạnh đó, cần bổ sung vào phạm vi giám sát tối cao của Quốc hội đối với luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội để thực hiện hiệu quả việc giám sát VBQPPL, phân công rành mạch nhiệm vụ giữa các ủy ban, những loại việc hoàn toàn đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nào thì cơ quan đó đảm nhiệm; những loại công việc mang tính giao thoa thì mảng giao thoa lớn nhất nghiêng về cơ quan nào thì giao cho cơ quan đó chủ trì, các cơ quan khác phối hợp thực hiện.

Tăng số lượng đại biểu chuyên trách thuộc Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Sắp xếp các đại biểu Quốc hội vào Hội đồng dân tộc và các ủy ban theo cơ cấu hợp lý, bảo đảm tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao.

Ba là, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng số lượng đại biểu chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và đổi mới các hình thức giám sát của Quốc hội xây dựng và thực hiện cơ chế trách nhiệm pháp lý đối với những cơ quan, cá nhân chậm trễ trong việc trình các báo cáo ra Quốc hội, nhằm bảo đảm thời gian và chất lượng của hoạt động thẩm tra các báo cáo; chú trọng các thông tin độc lập, khách quan từ các cơ quan thanh tra, kiểm toán.

Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thẩm tra của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật, pháp lệnh. Cần phân công cơ quan thẩm tra một cách hợp lý, phù hợp với chuyên môn và đặc biệt là năng lực của cơ quan thẩm tra; bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong hoạt động thẩm tra của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; phát huy cao nhất trí tuệ tập thể của các thành viên; tổ chức tốt hơn hoạt động phối hợp thẩm tra giữa Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.

Năm là, gắn kết giám sát tối cao của Quốc hội với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân

 Bổ sung các nguyên tắc, quy định về cơ chế phối hợp giữa hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiến nghị Quốc hội kế hoạch, nội dung giám sát phù hợp, tập trung vào những vấn đề mà người dân và dư luận xã hội đang quan tâm. Đồng thời, xây dựng cơ chế cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 tiếp thu, giải trình những kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Sáu là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí và bộ máy giúp việc cho Quốc hội hiện đại hóa hệ thống các công sở; tin học hóa hệ thống văn phòng, văn thư, lưu trữ, quản lý cán bộ, tài chính và tài sản công; phát triển mạng lưới thông tin, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động của Quốc hội. Triển khai xây dựng Quốc hội điện tử. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nhân sự và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Xây dựng đội ngũ chuyên gia, chuyên viên giúp việc hoạt động của Quốc hội, bảo đảm đội ngũ này có trình độ, năng lực tổng hợp và tham mưu cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội.

                                                                   Luật sư. Trần Ngọc Vinh, Chủ tịch Hội Luật gia thành phố Hải Phòng,

Đại biểu Quốc hội khoá XII, XIII, nguyên Phó trưởng Đoàn chuyên trách,

Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng

Lượt truy cập: 632073
Trực tuyến: ...

TRANG THÔNG TIN VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Cơ quan chủ quản: UBND thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Giám đốc Phạm Tuyên Dương

Liên hệ

 Địa chỉ: Số 7 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3846314

 Fax: 0225.3640091

 Email: sotp@haiphong.gov.vn