Ngày 26-11-2019, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 14 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước. Luật này gồm có 3 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2020.
Quy định cụ thể về đối tượng tham gia hoạt động kiểm toán
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước (KTNN) xác định cụ thể: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán là cơ quan, tổ chức, cá nhân được xác định trong quá trình kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán là có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của đơn vị được kiểm toán.
Luật cũng quy định rõ: KTNN chỉ thực hiện kiểm tra, đối chiếu các nội dung liên quan trực tiếp đến nội dung, phạm vi kiểm toán của đơn vị được kiểm toán tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong trường hợp cần kiểm toán toàn diện đối với nhóm đối tượng này, KTNN phải thực hiện quy trình để bổ sung vào kế hoạch kiểm toán và ban hành quyết định kiểm toán theo quy định của Luật KTNN.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán nhà nước
Luật bổ sung quy định: KTNN có nhiệm vụ xem xét, quyết định việc kiểm toán theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Tổng Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để phòng, chống tham nhũng trong cơ quan KTNN theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng làm căn cứ cho KTNN ban hành hoặc rà soát, sửa đổi các quy định về chuyển đổi vị trí công tác, quy tắc ứng xử và các quy định khác được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng.
Để bảo đảm xử lý kịp thời các vi phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, Luật quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của KTNN. Các nội dung về trình tự, thủ tục, hành vi vi phạm, mức xử phạt hành chính... được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính để tránh trùng lặp trong hệ thống pháp luật.
Quyền truy cập dữ liệu điện tử của kiểm toán nhà nước
KTNN có quyền được truy cập vào cơ sở dữ liệu quốc gia và dữ liệu điện tử của đơn vị được kiểm toán, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán để khai thác, thu thập thông tin, tài liệu liên quan trực tiếp đến nội dung, phạm vi kiểm toán; việc truy cập dữ liệu phải tuân thủ các quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật, bảo mật, an toàn theo quy định của pháp luật.
Trưởng Đoàn kiểm toán được ủy quyền truy cập cho thành viên Đoàn kiểm toán nhưng việc ủy quyền phải bằng văn bản, theo quy định của pháp luật và vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện công việc đã ủy quyền đó. Đồng thời, để xác định rõ phạm vi truy cập, tránh việc lạm quyền ảnh hưởng đến đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán, Luật quy định: chỉ được truy cập dữ liệu liên quan trực tiếp đến nội dung, phạm vi kiểm toán.
Quyền khiếu nại và khởi kiện của đơn vị được kiểm toán
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN quy định: Đơn vị được kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về hành vi của Trưởng Đoàn kiểm toán, Tổ trưởng Tổ kiểm toán, thành viên Đoàn kiểm toán, trong quá trình thực hiện kiểm toán khi có căn cứ cho rằng hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đồng thời có quyền khiếu nại về đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán trong báo cáo kiểm toán, thông báo kết quả kiểm toán khi có căn cứ cho rằng đánh giá, xác nhận, kết luận, kiến nghị kiểm toán đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động KTNN.
Ngoài ra, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân được quyền đề nghị KTNN xem xét, quyết định thực hiện việc kiểm toán đối với vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện qua quá trình giám sát và cơ chế phản hồi của KTNN.
Nguyên Thảo