Hỏi: Khi vợ chồng tôi giải quyết ly hôn, con gái tôi dưới 2 tuổi nên Toà đã giao con cho vợ tôi nuôi dưỡng. Tuy nhiên, sau khi chúng tôi ly hôn, tôi nhiều lần tới thăm con nhưng vợ cũ và gia đình ngăn cản không cho tôi gặp con. Xin hỏi, tôi có quyền được thăm nuôi con sau khi ly hôn không và hành vi cản trở không cho tôi gặp con có vi phạm pháp pháp luật không, nếu có bị xử phạt như thế nào?
Ông Đặng Thành C, quận An Dương, thành phố Hải Phòng
Trả lời: Mỗi đứa trẻ khi sinh ra đều có quyền được thụ hưởng sự chăm sóc, giáo dục từ phía cha mẹ. Sau khi cha mẹ ly hôn, người con chỉ có thể sống chung với một trong hai người hoặc sống cùng những người thân thích khác. Tuy nhiên, trong thực tế việc thăm nom con sau ly hôn của người không trực tiếp nuôi con nhiều khi không thuận lợi, thậm chí bị cản trở do những hệ lụy từ việc ly hôn để lại.
Tại khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: "Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở."; "Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.". Mặt khác, tại Điều 56 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định:

“Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”
Căn cứ theo các quy định trên, nếu như ông không bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án thì sau khi ly hôn ông hoàn toàn có quyền thăm nom con của mình; hành vi của vợ cũ và gia đình ngăn cản không cho ông thăm nom con sau khi ly hôn là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng tùy theo từng mức độ vi phạm cụ thể theo như các quy định viện dẫn ở trên.
Luật gia Phạm Duy Khoa