TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Thành phố Hải Phòng

Thời gian: 26/08/2022 15:34

Cho thuê lại lao động, bảo đảm quyền của người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động

Trong xu hướng dịch chuyển lao động quốc tế mạnh mẽ như hiện nay cũng như bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, việc điều chỉnh pháp luật về cho thuê lại lao động, trong đó có bảo đảm quyền của người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động để phù hợp với các cam kết quốc tế là cần thiết.

Pháp luật Việt Nam quy định 20 công việc được thực hiện cho thuê lại lao động theo Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ về điều kiện lao động và quan hệ lao động như sau: Phiên dịch/biên dịch/tốc ký; Thư ký/trợ lý hành chính; Lễ tân; Hướng dẫn du lịch; Hỗ trợ bán hàng; Hỗ trợ dự án; Lập trình hệ thống máy sản xuất; Sản xuất, lắp đặt thiết bị truyền hình, viễn thông; Vận hành/kiểm tra/sửa chữa máy móc xây dựng, hệ thống điện sản xuất; Dọn dẹp vệ sinh tòa nhà, nhà máy; Biên tập tài liệu; Vệ sĩ/bảo vệ; Tiếp thị/chăm sóc khách hàng qua điện thoại; Xử lý các vấn đề tài chính, thuế; Sửa chữa/kiểm tra vận hành ô tô; Scan, vẽ kỹ thuật công nghiệp/trang trí nội thất; Lái xe; Quản lý, vận hành, bảo dưỡng và phục vụ trên tàu biển; Quản lý, giám sát, vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng và phục vụ trên giàn khoan dầu khí; Lái tàu bay, phục vụ trên tàu bay/bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và thiết bị tàu bay/điều độ, khai thác bay/giám sát bay.

Bộ luật Lao động năm 2019 không định nghĩa thế nào là người lao động thuê lại nhưng Điều 14 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP quy định: “Người lao động thuê lại là người lao động có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được doanh nghiệp cho thuê lại tuyển dụng và giao kết hợp đồng lao động, sau đó chuyển sang làm việc và chịu sự điều hành của bên thuê lại lao động”. Với quy định này, có thể thấy đối tượng người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động khác với đối tượng người lao động trong quan hệ lao động truyền thống, đó là phải từ đủ 18 tuổi trở lên và không thuộc các trường hợp có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi hay hạn chế năng lực hành vi dân sự. Sự khác nhau của người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động là họ được tuyển dụng và giao kết hợp đồng lao động bởi doanh nghiệp cho thuê lại lao động, sau đó chuyển sang làm việc và chịu sự điều hành của bên thuê lại lao động trong một thời hạn nhất định. Thời hạn làm việc cụ thể của mỗi người lao động thuê lại sẽ tùy thuộc vào yêu cầu của doanh nghiệp cho thuê lại lao động nhưng pháp luật quy định tối đa là 12 tháng (khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Lao động năm 2019).

Tại Điều 58 Bộ luật Lao động năm 2019, ngoài các quyền và nghĩa vụ chung đối với người lao động, người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động còn có các quyền như sau: Được trả lương không thấp hơn tiền lương của người lao động của bên thuê lại lao động có cùng trình độ khi làm cùng công việc hoặc công việc có giá trị như nhau; Khiếu nại với doanh nghiệp cho thuê lại lao động trong trường hợp bị bên thuê lại lao động vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê lại lao động; Thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động với doanh nghiệp cho thuê lại lao động để giao kết hợp đồng lao động với bên thuê lại lao động.

Người lao động có nghĩa vụ như sau: Thực hiện công việc theo hợp đồng lao động đã ký với doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại lao động; Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động; tuân theo sự quản lý, điều hành, giám sát hợp pháp của bên thuê lại lao động.

Trong quá trình sử dụng lao động, người lao động thuê lại phát sinh một số vấn đề:

Một là, về hình thức của hợp đồng cho thuê lại lao động bằng văn bản. Việc quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng bằng văn bản là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên trong quan hệ cho thuê lại lao động trong quá trình thực hiện hợp đồng cho thuê lại lao động, đặc biệt là người lao động.

Thực trạng hiện nay, có doanh nghiệp “lách luật” không giao kết hợp đồng cho thuê lại lao động mà ký những loại hợp đồng khác với tên gọi như hợp đồng khoán việc, hợp đồng dịch vụ cung ứng lao động, phổ biến trong lĩnh vực may mặc khoán khâu gia công, xây dựng khoán hạng mục thi công, bảo vệ, giao nhận hàng hóa, bốc xếp hàng hóa trong nhà máy, và dọn dẹp, vệ sinh … Khi giao kết hợp đồng này, bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, bản chất đây chính là hoạt động cho thuê lại lao động. Bởi thực tế khi người lao động đến làm việc tại doanh nghiệp thuê lại vẫn phải chịu sự quản lý, điều hành, tuân thủ nội quy lao động và các quy chế khác của doanh nghiệp này. Khi đó, doanh nghiệp thuê lại lao động vẫn có đủ nguồn nhân lực nhưng không phải thực hiện các nghĩa vụ với người lao động thuê lại như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, không bảo đảm các chế độ thai sản, nghỉ phép, tiền thưởng cho người lao động…, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người lao động

Hai là, về nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động: do các bên thỏa thuận với các nội dung cơ bản: Địa điểm làm việc, vị trí việc làm cần sử dụng lao động thuê lại, nội dung cụ thể của công việc, yêu cầu cụ thể đối với người lao động thuê lại; Thời hạn thuê lại lao động; thời gian bắt đầu làm việc của người lao động thuê lại; Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc; Trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Nghĩa vụ của mỗi bên đối với người lao động.

Trên thực tế doanh nghiệp thường ghi nhận khá sơ sài các điều khoản này bởi quy định pháp luật cho các bên “được phép thỏa thuận”. Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động khi xảy ra thiệt hại hoặc tranh chấp. Điều 55 Bộ luật Lao động năm 2019 chỉ đưa ra quy định nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động không được có những thỏa thuận về quyền, lợi ích của người lao động thấp hơn hợp đồng lao động mà doanh nghiệp cho thuê lại lao động đã ký với người lao động. Thực tiễn thực hiện ký kết hợp đồng cho thuê lại lao động cho thấy, các nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động chưa có điều khoản thực sự rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ và chế độ được hưởng của người lao động thuê lại; nhiều trường hợp giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động ký hợp đồng cho thuê lại lao động nhưng không công khai hoặc không thông báo về nội dung hợp đồng cho thuê lại lao động đã ký cho người lao động biết về điều kiện làm việc và các chế độ phúc lợi khác…

Ba là, vấn đề giải quyết tranh chấp trong quan hệ cho thuê lại lao động:  Bộ luật Lao động năm 2019 chỉ quy định tranh chấp lao động cá nhân về cho thuê lại lao động, chưa quy định riêng về nội dung giải quyết tranh chấp tập thể về cho thuê lại lao động. Đây cũng là khoảng trống của pháp luật cho thuê lại lao động.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong quan hệ cho thuê lại lao động hướng tới bảo đảm quyền của người lao động

Thứ nhất, pháp luật cho thuê lại lao động cần được xây dựng theo hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh nhưng phải bảo đảm những nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc của người lao động làm việc theo hình thức cho thuê lại lao động.

Thứ hai, cần quy định độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động tham gia vào quan hệ cho thuê lại lao động tương thích độ tuổi của người lao động thông thường: từ đủ 15 đến dưới 18 cũng được tham gia làm việc tại bên cho thuê lại lao động nhằm bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử về tuổi đối với người lao động thuê lại và người lao động thông thường, đặc biệt, trong bối cảnh công nghệ 4.0 và hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều ngành nghề mới như giải trí, truyền thông số, văn nghệ, thể thao… và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.

Thứ ba, bổ sung một số nội dung trong hợp đồng cho thuê lại lao động gồm: quy định cụ thể về phí dịch vụ cho thuê lại lao động như: mức phí, phương thức thanh toán, trách nhiệm nếu vi phạm. Cần quy định rõ điều khoản về phí trả cho bên cho thuê lại lao động, lương trả cho người lao động, tiền thưởng, tiền chi trả làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội của người lao động nhằm bảo đảm quyền lợi của người lao động; mở rộng hơn các quyền của người lao động trong quan hệ cho thuê lại lao động như quyền thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động.

Thứ tư, bổ sung cụ thể quy định các trường hợp chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động, xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động khi chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động.

(Theo Tạp chí Quản lý nhà nước)

Lượt truy cập: 632073
Trực tuyến: ...

TRANG THÔNG TIN VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Cơ quan chủ quản: UBND thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Giám đốc Phạm Tuyên Dương

Liên hệ

 Địa chỉ: Số 7 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3846314

 Fax: 0225.3640091

 Email: sotp@haiphong.gov.vn