TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Thành phố Hải Phòng

Thời gian: 26/04/2021 16:38

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều  của Luật Tổ chức chính quyền địa phương góp phần hoàn thiện khung pháp lý về chính quyền cơ sở

 

Ngày 19-6-2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 13 thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (thay thế cho Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003). Luật gồm 8 chương với 143 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2016. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương các cấp.

Tuy nhiên, qua thời gian triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả đã đạt được, một số quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã bộc lộ sự bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Ngày 22-11-2019, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2021. Những điểm mới của Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) có ý nghĩa quan trọng, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về chính quyền cơ sở.

 Chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp

Trước đây, tại khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy nhiên, theo các Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị thì từ ngày 01-07-2021, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) phường, chỉ có Ủy ban nhân dân (UBND) phường. Do đó, để đảm bảo tính khái quát, Luật sửa đổi quy định: Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Quy định này tạo sự linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương ở cơ sở.

 Quy định cụ thể về phân cấp, phân quyền và đảm bảo nguồn lực thực hiện

 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền đối với chính quyền địa phương nhưng chưa quy định cụ thể về việc đảm bảo các nguồn lực để thực hiện. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã cụ thể hóa việc phân quyền, phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm điệu kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác; gắn phân quyền, phân cấp với cơ chế kiểm tra, thanh tra khi thực hiện phân quyền, phân cấp. Chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp. Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho UBND môn thuộc UBND cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch UBND có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp, Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản. Như vậy, có thể thấy, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ ràng hơn để tránh việc phân cấp, ủy quyền không cụ thể, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đồng thời xác định cụ thể các nguồn lực để đảm bảo thực hiện trong thực tế.

 Giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

Luật sửa đổi theo hướng giảm số lượng đại biểu HĐND các cấp. Cụ thể, đối với HĐND thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì cứ thêm sáu mươi nghìn dân được bầu thêm 01 đại biểu nhưng không quá 85 đại biểu (trước là 95 đại biểu). Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được bầu 95 đại biểu (trước đây là 105 đại biểu). HĐND các tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500 nghìn dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 500 nghìn dân trở lên có tối đa 75 đại biểu (trước là 85 đại biểu), HĐND các tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 01 triệu dân trở lên được bầu không quá 85 đại biểu (trước là 95 đại biểu). HĐND các huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40 nghìn dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; trên 40 nghìn dân được bầu tối đa 35 đại biểu (trước là 40 đại biểu), HĐND các huyện còn lại có từ 80 nghìn dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; trên 80 nghìn dân được bầu tối đa 35 đại biểu (trước là 40 đại biểu). HĐND các xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 2.000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu; có trên 2.000 dân đến dưới 3.000 dân được bầu 19 đại biểu (trước là 25 đại biểu); HĐND các xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 3.000 dân đến 4.000 dân được bầu 21 đại biểu; có trên 4.000 dân thì cứ thêm 1.000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 30 đại biểu (trước là 35 đại biểu).

 Cơ cấu tổ chức phù hợp với thực tiễn

Luật mới đã sửa đổi theo hướng giảm số lượng Phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh và cấp huyện. Cụ thể, đối với HĐND cấp tỉnh, theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 bao gồm 02 Phó chủ tịch HĐND. Tuy nhiên, Luật sửa đổi năm 2019 quy định: Trường hợp Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách thì có 01 Phó Chủ tịch, trường hợp Chủ tịch HĐND tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách thì có 02 Phó Chủ tịch. Phó Chủ tịch HĐND tỉnh là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Tương tự như số lượng Phó Chủ tịch HĐND, đối với các Phó ban HĐND thì trường hợp Trưởng ban hoạt động chuyên trách sẽ có 01 Phó ban; trường hợp Trưởng ban hoạt động không chuyên trách thì có 02 Phó ban. Đối với HĐND cấp huyện, Luật năm 2019 cũng quy định chỉ có 01 Phó Chủ tịch HĐND thay vì 02 Phó Chủ tịch như  HĐND trước đây.

 Về cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã, Luật năm 2015 quy định, cấp xã loại II có 01 Phó Chủ tịch. Tuy nhiên, cấp xã là cấp chính quyền cơ sở, cần giải quyết nhiều yêu cầu liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nên Luật năm 2019 đã sửa đổi theo hướng tăng số lượng Phó Chủ tịch UBND xã loại II lên không quá 02 Phó Chủ tịch. Điều này xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với yêu cầu thực tế. Ngoài ra, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 còn sửa đổi khái niệm “họp bất thường” thành “họp để giải quyết công việc phát sinh đột xuất hoặc họp chuyên đề”.

Như vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 tiếp tục cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và ngày càng phù hợp hơn với mô hình ở từng loại hình chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo… Việc hoàn thiện khung pháp lý về chính quyền cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng một chính quyền thực sự là của Nhân dân./.

                                                          Phạm Liên

Lượt truy cập: 632073
Trực tuyến: ...

TRANG THÔNG TIN VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Cơ quan chủ quản: UBND thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Giám đốc Phạm Tuyên Dương

Liên hệ

 Địa chỉ: Số 7 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3846314

 Fax: 0225.3640091

 Email: sotp@haiphong.gov.vn