TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Thành phố Hải Phòng

Thời gian: 29/12/2023 10:57

Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân  trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Đại hội XIII của Đảng xác định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là một nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[1], đồng thời yêu cầu “Nghiên cứu ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”[2]. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 “Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với tư pháp, Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, đó là: “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đồng thời, Nghị quyết xác định một trong ba trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Thời gian tới, để thực hiện mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án cần tập trung quán triệt, triển khai các nội dung chủ yếu sau:

Một là, về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền tư pháp.

Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. So với Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, quan điểm của Đảng ta về mục tiêu, yêu cầu xây dựng nền tư pháp tiếp tục có bước phát triển, đó là bổ sung yêu cầu về tính “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng” của nền tư pháp. Tính chuyên nghiệp đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng, làm việc đúng chức trách, nhiệm vụ được giao; hoạt động của cơ quan tư pháp phải tuân thủ trình tự, thủ tục luật định, và phán quyết phải dựa trên căn cứ pháp luật. Xây dựng nền tư pháp hiện đại nhằm nâng cao chất lượng nền tư pháp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế và tiệm cận với các nền tư pháp tiên tiến trên thế giới. Công bằng là đặc tính của hoạt động tố tụng tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, công bằng cũng là mục tiêu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, được ghi nhận trong Hiến pháp.

Những nội dung mới về mục tiêu, yêu cầu cải cách tư pháp nêu trên của Nghị quyết số 27-NQ/TW cần được quán triệt và triển khai cụ thể trong thực tiễn. Nó cũng đặt ra yêu cầu đối với quá trình hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật phải bám sát mục tiêu, yêu cầu để thể chế hóa đầy đủ, cụ thể trong các đạo luật. Đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; tăng cường các điều kiện bảo đảm; đào tạo, nâng cao năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ các chức danh tư pháp ngang tầm nhiệm vụ.

Hai là, bảo đảm tính độc lập của tòa án.

Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu “bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là những nguyên tắc căn cốt trong tổ chức và hoạt động của tòa án được ghi nhận ở các văn kiện, các cam kết quốc tế và trong Hiến pháp của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nguyên tắc độc lập xét xử được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp sau này và nội hàm của nó được phát triển rộng hơn dưới nhiều góc độ khác nhau.

Phán quyết của tòa án liên quan trực tiếp đến những quyền thiêng liêng, cơ bản, liên quan đến danh dự, nhân phẩm, lương tâm, sinh mệnh chính trị, tài sản của con người. Vì vậy, để bảo đảm được tính công bằng thì không ai được phép áp đặt hay can thiệp vào việc xét xử của tòa án. Nhà nước, pháp luật và toàn xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho tòa án, thẩm phán một môi trường tác nghiệp không có bất cứ sự can thiệp nào; họ phải được độc lập trong xét xử và điều duy nhất tòa án và thẩm phán phải tuân theo chính là pháp luật.

Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định cụ thể hơn về nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của tòa án trên 2 phương diện: bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, độc lập giữa các cấp xét xử và bảo đảm thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Về bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử: Hệ thống tòa án được phân thành các cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng, bao gồm cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm, cấp giám đốc thẩm, tái thẩm. Mối quan hệ giữa các cấp xét xử không phải quan hệ hành chính giữa cấp trên với cấp dưới; cấp phúc thẩm không phải là cấp trên của cấp sơ thẩm, tương tự cấp giám đốc thẩm không phải là cấp trên của cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Các cấp xét xử hoàn toàn độc lập với nhau, là quan hệ tố tụng, độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật.

Về độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử: Đây là sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm với các chủ thể khác bên ngoài hội đồng xét xử, cũng như độc lập ngay giữa các thành viên trong hội đồng xét xử. Các chủ thể khác không được phép can thiệp, chỉ đạo hoạt động xét xử của thẩm phán, hội thẩm khi họ tham gia xét xử ngay cả khi người đó là lãnh đạo, quản lý của thẩm phán, hội thẩm. Thẩm phán, hội thẩm cũng độc lập với nhau khi đưa ra quan điểm, ý kiến, quyết định mà không phụ thuộc vào thành viên khác trong hội đồng xét xử. Họ được quyền bảo lưu ý kiến trong trường hợp ý kiến đó là thiểu số. Hoạt động xét xử mang tính đặc thù, không phải là hoạt động quản lý nhà nước nên không phải chịu sự tuân thủ, phục tùng, mệnh lệnh của cấp trên. Họ được toàn quyền quyết định trên cơ sở pháp luật và chịu sự ràng buộc duy nhất là quy định của pháp luật.

Hiện nay, nhiều quy định của pháp luật hiện hành chưa thể chế hóa triệt để được tinh thần của nguyên tắc tối thượng này trong hoạt động tư pháp. Do vậy, cần quán triệt yêu cầu này của Nghị quyết số 27-NQ/TW và các nghị quyết, kết luận khác của Đảng, đặc biệt là trong việc nghiên cứu, sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các luật tố tụng nhằm thực hiện nghiêm nguyên tắc độc lập tư pháp. Theo đó, cần tổ chức hệ thống tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử bao gồm Tòa án nhân dân sơ thẩm, Tòa án nhân dân phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời, sớm hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền ban hành cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp, làm ảnh hưởng đến nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của tòa án theo đúng yêu cầu của Nghị quyết đã nêu. 

Ba là, xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp.

Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp..., quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Đây là yêu cầu thiết yếu nhằm làm rõ và quy định chi tiết về quyền tư pháp của tòa án, trên cơ sở đó xác định thẩm quyền của tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Theo quy định của Hiến pháp, thì “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”; “Chính phủ... thực hiện quyền hành pháp”; “Tòa án... thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, tòa án được Hiến pháp phân công thực hiện quyền tư pháp.

Thực tiễn pháp lý được thừa nhận, nội hàm của quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử và phán quyết; quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quyền phát triển án lệ; quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân; quyền công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án; quyền công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài; quyền xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật; quyền giải thích pháp luật và một số quyền khác...

Quyền tư pháp có những đặc trưng cơ bản là được thực hiện bởi tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; phải tuân theo thủ tục tố tụng chặt chẽ; bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật bắt buộc các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành; bản án, quyết định của tòa án được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước bởi cơ quan thi hành án có thẩm quyền; bản án, quyết định của tòa án chỉ bị thay đổi, hủy bỏ bởi tòa án có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục luật định; bản án, quyết định của tòa án đã tuân thủ đầy đủ thủ tục tố tụng, nhưng có sai sót thì bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật để hủy, sửa theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và hội đồng xét xử chỉ phải chịu trách nhiệm nếu có lỗi chủ quan, cố ý.

Bốn là, mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử vi phạm hành chính.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Tòa án đã thực hiện rất hiệu quả việc kiểm soát các cơ quan công quyền áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thông qua xét xử vụ án hành chính. Tuy nhiên, việc trao cho cơ quan hành chính nhà nước thẩm quyền áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, áp dụng chế tài làm hạn chế quyền con người của họ trong một số trường hợp đã thể hiện sự bất hợp lý, không bảo đảm tính vô tư, khách quan. Trong khi đó, Hiến pháp quy định tòa án có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, duy trì trật tự xã hội và lợi ích công cộng, đồng thời phải bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Do vậy, việc áp dụng chế tài và biện pháp hạn chế quyền con người phải giao cho tòa án quyết định dựa trên các căn cứ của pháp luật.

Năm là, thực hiện chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá.

Trong toàn bộ quá trình tố tụng, hoạt động xét xử của tòa án giữ vị trí trung tâm. Trong giai đoạn xét xử có sự hội tụ đầy đủ các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng tranh tụng, bao gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Đặc biệt, chỉ đến giai đoạn xét xử mới hiến định nguyên tắc công khai, theo đó toàn bộ quá trình xét xử được tiến hành công khai, trừ một số trường hợp xét xử kín được luật định. Chỉ đến giai đoạn xét xử, toàn bộ chứng cứ của bên buộc tội, bên gỡ tội và của các bên đương sự mới được đưa ra kiểm tra, đối chất, tranh tụng một cách công khai, theo một thủ tục chặt chẽ và được hội đồng xét xử xem xét toàn diện. Chỉ có chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa và trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa mới có giá trị chứng minh và được sử dụng làm căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết về vụ án.

Với tầm quan trọng của hoạt động xét xử, Đảng ta đã quyết tâm đẩy mạnh tranh tụng và xác định đây là vấn đề có tính đột phá trong cải cách tư pháp[3]. Trên cơ sở kế thừa kết quả đạt được trong việc thực hiện cải cách tư pháp thời gian qua, Nghị quyết số 27-NQ/TW tiếp tục yêu cầu: “Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.

Tranh tụng không phải là nội dung mới mà là yêu cầu tất yếu của tư pháp tiến bộ trên thế giới. Quá trình tố tụng, cả cơ quan tố tụng và người tham gia tố tụng đều có nhu cầu kiểm tra, bổ sung chứng cứ, tranh luận và phản biện lý lẽ của nhau. Do đó, tranh tụng là nhu cầu khách quan của tố tụng và tập trung nhất ở giai đoạn xét xử tại phiên tòa. Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã thể chế hóa các nghị quyết, quan điểm của Đảng và hiến định nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Có thể nói, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong Hiến pháp năm 2013 và các luật tố tụng đã phản ánh bước tiến quan trọng của nền tư pháp nước nhà, tạo sự chuyển biến về chất trong hoạt động tố tụng. Nghị quyết số 27-NQ/TW một lần nữa tiếp tục khẳng định quan điểm đó và nhấn mạnh “tranh tụng là đột phá” của cải cách tư pháp.

Sáu là, phân định rõ nhiệm vụ của từng cấp xét xử.

Để hoàn thiện bộ máy tổ chức theo thẩm quyền xét xử và thực hiện nguyên tắc độc lập tư pháp, Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định rõ thẩm quyền của từng cấp tòa án, nâng cao trách nhiệm chứng minh của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng liên quan; bảo đảm hoạt động tố tụng hiệu quả hơn, có điểm dừng phù hợp; thực hiện nghiêm chế độ hai cấp xét xử được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Bảy là, đổi mới cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án.

“Việc xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia” được quy định trong Hiến pháp như một phương thức để Nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát hoạt động xét xử của tòa án. Hội thẩm mang đến phiên tòa quan niệm đạo đức và sự đánh giá chung của xã hội về hành vi phạm tội và các tranh chấp theo quan niệm về lẽ phải, sự công bằng. Với kinh nghiệm, sự hiểu biết và kiến thức của mình, hội thẩm góp phần quan trọng xác định sự thật khách quan của vụ án, làm tăng niềm tin của thẩm phán trong việc đưa ra phán quyết “thấu tình, đạt lý”. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, các quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế lựa chọn, vị trí, vai trò, thẩm quyền, tổ chức hoạt động của hội thẩm... và quá trình thực thi bộc lộ hạn chế, bất cập, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tư pháp. Đây là một nội dung mới đặt ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong đó yêu cầu “Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án”.

Để khắc phục những bất cập trong thực tiễn và thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, thời gian tới cần nghiên cứu đổi mới chế định hội thẩm nhân dân theo hướng: Hoàn thiện tiêu chuẩn của hội thẩm nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân; đổi mới cơ cấu, thành phần hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử; đổi mới cơ chế tuyển chọn, bầu cử, quản lý hội thẩm nhân dân; quy định chặt chẽ quy trình lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng xét xử; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân và có chế độ, chính sách hợp lý... Đồng thời, về lâu dài, cần nghiên cứu trình Quốc hội ban hành một đạo luật độc lập về hội thẩm nhân dân.

Tám là, xây dựng tòa án điện tử.

Xây dựng tòa án điện tử đã trở thành xu thế toàn cầu. Tòa án điện tử mang đến nhiều lợi ích cho tòa án, người dân và xã hội, như giúp tăng năng suất lao động của tòa án; hỗ trợ thẩm phán ra phán quyết chính xác; tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí của người dân; xử lý một cách nhân văn các tình huống đặc biệt của tố tụng; công khai, minh bạch hoạt động của tòa án; tăng năng lực quản lý và giám sát trong hệ thống tòa án; tiết kiệm cho ngân sách... Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu phải “xây dựng tòa án điện tử” là một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Chín là, về đội ngũ cán bộ tư pháp.

Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt ra yêu cầu: “Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán”.

Xét xử là công việc rất khó khăn, vất vả bởi đó là quá trình đi tìm sự thật thường được che giấu một cách tinh vi, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại tranh chấp, vi phạm, tội phạm phi truyền thống với những thủ đoạn mới chưa từng có. Với trọng trách của người bảo vệ và thực thi công lý, thẩm phán thường xuyên phải đối mặt với thách thức, tiêu cực trong xã hội, rủi ro, nguy hiểm, thậm chí là không ít cám dỗ, mua chuộc vì mỗi phán quyết của thẩm phán tác động trực tiếp đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản và cả tính mạng con người. Nếu không rèn cho mình bản lĩnh vững vàng, sự liêm chính, trong sạch, thẳng thắn, trung thực, vô tư, khách quan thì thẩm phán sẽ không thể hoàn thành được trọng trách của mình.

Sự nghiệp đi tìm lẽ phải, sự công bằng không có chỗ đứng cho những con người thiếu sự liêm chính, trung thực, thẳng thắn và Nhân dân đòi hỏi ở thẩm phán những phẩm chất cao quý với những đánh giá khắt khe. Vì vậy, mỗi thẩm phán phải là tấm gương về sự lao động hết mình, thanh liêm, chính trực, công tâm, khách quan, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, lối sống, bản lĩnh, dũng khí bảo vệ cái đúng và đặc biệt phải liêm, phải trong sạch, phải luôn gương mẫu giữ mình. Chỉ có như vậy mới góp phần xây dựng được niềm tin, sự tôn trọng của người dân và xã hội đối với tòa án và thẩm phán.

Quán triệt yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, thời gian tới cần khẩn trương sửa đổi các luật, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu đặt ra. Theo đó, nghiên cứu đổi mới ngạch, bậc các chức danh trong hệ thống tòa án (thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án); quy định chặt chẽ và nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm các chức danh tư pháp; đề cao kỷ cương, kỷ luật, tăng cường giám sát thẩm phán... nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án đủ năng lực, phẩm chất, thực hiện tốt quyền tư pháp được giao.

Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

 

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 174

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 177

[3] Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2-1-2002, của Bộ Chính trị, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”

Các tin cũ hơn

Lượt truy cập: 632073
Trực tuyến: ...

TRANG THÔNG TIN VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Cơ quan chủ quản: UBND thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Giám đốc Phạm Tuyên Dương

Liên hệ

 Địa chỉ: Số 7 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3846314

 Fax: 0225.3640091

 Email: sotp@haiphong.gov.vn