TRANG THÔNG TIN PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Thành phố Hải Phòng

Thời gian: 12/08/2025 14:20

E. HỎI ĐÁP LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH MỚI VỀ KIỂM TRA, XỬ LÝ KỶ LUẬT TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

  Câu hỏi 1. Bà Lê Thị Hoa, công chức thuộc Uỷ ban nhân dân xã hỏi thẩm quyền kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại Nghị định số 93/2025/NĐ-CP ngày 26/4/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2020 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có gì thay đổi so với Nghị định số 19/2020/NĐ-CP?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan đến thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bộ trưởng; Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo hệ thống dọc quản lý người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính tại Điều 6 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP trên cơ sở đưa các quy định về thẩm quyền kiểm tra của các chức danh tại Điều 2 Thông tư số 14/2021/TT-BTP ngày 30/12/2021 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP lên quy định tại Nghị định, bảo đảm việc phân cấp, phân quyền, tránh chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động kiểm tra. Đồng thời, việc sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền kiểm tra cũng nhằm phù hợp với chủ trương của Đảng và các quy định mới quy định mới về sắp xếp tổ chức bộ máy, cụ thể như sau:

(i) Bổ sung thẩm quyền kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ.

(ii) Bãi bỏ thẩm quyền kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý thị trường; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

(iii) Bãi bỏ quy định “Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước theo quy định tại Điều 17 Luật Xử lý vi phạm hành chính”.

(iv) Bãi bỏ quy định các đơn vị tham mưu, giúp người có thẩm quyền thực hiện kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Câu hỏi 2. Quy định về Đoàn kiểm tra tại Nghị định số 93/2025/NĐ-CP có gì mới?

Trả lời:

Thứ nhất, xuất phát từ vướng mắc về việc thành lập đoàn kiểm tra và đoàn kiểm tra liên ngành khi khoản 1 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định đoàn kiểm tra chỉ được thành lập theo hình thức liên ngành (trừ trường hợp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thành lập đoàn kiểm tra để kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý của mình), khoản 2 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng:

(i) Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp thành lập đoàn kiểm tra liên ngành và đoàn kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;

(ii) Bộ trưởng; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc cơ quan Trung ương được tổ chức theo hệ thống dọc thành lập đoàn kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý và đoàn kiểm tra liên ngành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

 Thứ hai, quy định đoàn kiểm tra phải có từ 05 thành viên trở lên tại khoản 2 Điều 8 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP chưa phù hợp với thực tiễn. Bởi vì, quy định này áp dụng ở cấp tỉnh là phù hợp nhưng ở cấp huyện, việc thành lập đoàn kiểm tra với số lượng thành viên nêu trên sẽ ảnh hưởng đến quá trình triển khai và gặp khó khăn do số lượng cán bộ, công chức cấp huyện được bố trí còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc Nghị định quy định “cứng” 01 Phó trưởng đoàn cũng không phù hợp, thiếu tính linh hoạt trong trường hợp đoàn kiểm tra có nhiều thành viên và kiểm tra nhiều đối tượng. Do vậy, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP chỉ quy định chung về thành phần đoàn kiểm tra thay vì quy định cụ thể về số lượng các thành viên đoàn kiểm tra như trong Nghị định số 19/2020/NĐ-CP. Nghị định số 93/2025/NĐ-CP cũng không quy định “cứng” đoàn kiểm tra phải gồm 01 Phó trưởng đoàn mà quy định theo hướng linh hoạt thành phần đoàn kiểm tra gồm 01 Phó trưởng đoàn trong trường hợp cần thiết.

Câu hỏi 3. Ông Hoàng Văn Tùng hỏi: Nội dung kiểm tra tại Điều 11 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP chưa thống nhất với quy định tại điểm đ1 khoản 1 Điều 37 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 68/2025/NĐ-CP). Vậy, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã khắc phục nội dung này chưa?

  Trả lời:

Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 3 Điều 11 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP từ “Tổ chức công tác phổ biến, tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ” thành “Tổ chức công tác phổ biến, tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền” để bảo đảm thống nhất với quy định tại điểm đ1 khoản 1 Điều 37 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 68/2025/NĐ-CP).

Câu hỏi 4. Bà Nguyễn Quỳnh hỏi: Khi lập Kế hoạch kiểm tra theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP tôi thấy nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn thi hành. Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi như thế nào về nội dung này?

  Trả lời:

Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 và bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 12 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi quy định về thẩm quyền lập kế hoạch kiểm tra theo hướng không quy định chi tiết các chức danh giúp người có thẩm quyền lập kế hoạch kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Việc giao chức danh, đơn vị tham mưu giúp người có thẩm quyền lập kế hoạch kiểm tra thực hiện nhiệm vụ sẽ được thực hiện trên cơ sở phân công công việc nội bộ của các cơ quan, đơn vị. Nghị định của Chính phủ không cần thiết quy định cụ thể vấn đề này. Theo đó, điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP chỉ quy định về thẩm quyền lập kế hoạch kiểm tra của người có thẩm quyền kiểm tra tại Điều 6 của Nghị định, không quy định các chức danh, đơn vị cụ thể như Cục trưởng Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật thuộc Bộ Tư pháp, Giám đốc Sở Tư pháp, Trưởng phòng Tư pháp, tổ chức pháp chế hoặc tổ chức có chức năng, nhiệm vụ tương đương thuộc cơ quan, đơn vị quản lý người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao giúp người có thẩm quyền kiểm tra lập kế hoạch kiểm tra.

Thứ hai, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 12 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định về việc gửi kế hoạch kiểm tra để Bộ Tư pháp phối hợp, theo dõi. Theo đó, kế hoạch kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi đến Bộ Tư pháp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ban hành để theo dõi, phối hợp và tổ chức thực hiện. Nội dung này trước đây được quy định tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, tuy nhiên, để bảo đảm tính thống nhất, tập trung các nội dung về kế hoạch kiểm tra tại 01 văn bản quy phạm pháp luật, nội dung này đã được chuyển từ Nghị định số 118/2021/NĐ-CP sang Nghị định số 19/2020/NĐ-CP.

Câu hỏi 5. Nhiều nội dung của Quyết định kiểm tra quy định tại Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP chưa đầy đủ. Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi như thế nào về vấn đề này?

  Trả lời:

Khoản 5 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung các nội dung cơ bản cần có trong quyết định kiểm tra tại Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, cụ thể:

Thứ nhất, khoản 5 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi khoản 2 Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về các nội dung của quyết định kiểm tra theo hướng lược bỏ bớt một số nội dung phải có trong quyết định kiểm tra bị trùng với nội dung trong kế hoạch kiểm tra, bảo đảm quyết định kiểm tra ngắn gọn, tập trung các nội dung cơ bản, tránh trùng lắp, cụ thể: lược bỏ (i) Ngày, tháng, năm ban hành quyết định kiểm tra; (ii) Địa điểm kiểm tra; (iii) Nội dung kiểm tra; (iv) Quyền và trách nhiệm của đối tượng được kiểm tra; (v) Kinh phí thực hiện kiểm tra.

Thứ hai, thời hạn kiểm tra quy định tối đa là 07 ngày làm việc như quy định tại Nghị định số 19/2020/NĐ-CP là quá ngắn. Do vậy, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng tăng thời hạn kiểm tra từ 07 ngày làm việc lên 15 ngày để phù hợp với thực tế. Đồng thời, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP cũng tăng thời gian gia hạn kiểm tra từ 07 ngày làm việc lên 10 ngày.

Thứ ba, khoản 3 Điều 13 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP cũng đồng thời được bổ sung quy định làm rõ thời hạn kiểm tra là khoảng thời gian đoàn kiểm tra làm việc trực tiếp với đối tượng kiểm tra để thực tiễn áp dụng thống nhất, đồng bộ.

Câu hỏi 6. Nghị định số 93/2025/NĐ-CP quy định liên quan đến việc tiến hành cuộc kiểm tra như thế nào?

  Trả lời:

  Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi khoản 2 Điều 14 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng đơn giản hóa việc lập biên bản kiểm tra khi thực hiện kiểm tra. Trước đây, Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định: Trưởng đoàn kiểm tra hoặc người được ủy quyền tiến hành lập biên bản để xác nhận việc thu thập, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm tra và ký xác nhận thông qua biên bản kiểm tra ngay sau khi kết thúc cuộc kiểm tra. Quy định mới hiện hành đã sửa đổi quy định này để đơn giản hơn và tạo sự chủ động, linh hoạt cho các chủ thể trong đoàn kiểm tra khi tiến hành việc lập biên bản kiểm tra. Theo đó, chỉ quy định “Việc kiểm tra phải được lập thành biên bản để làm căn cứ ban hành kết luận kiểm tra”.

  Bên cạnh đó, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP cũng bổ sung thông tin “Họ và tên, chức vụ của người thành viên đoàn kiểm tra được phân công lập biên bản kiểm tra” tại điểm b khoản 2 Điều này để bảo đảm tính đầy đủ và thống nhất. Đồng thời, chỉnh sửa điểm h khoản 2 Điều này về việc ký biên bản kiểm tra của Trưởng đoàn kiểm tra và cá nhân hoặc đại diện tổ chức được kiểm tra để đảm phù hợp với thực tế triển khai.

Câu hỏi 7. Thời gian ban hành Kết luận kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chínhh hiện nay được quy định như thế nào?

  Trả lời:

Điểm a, b, c khoản 7 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi bổ sung các quy định của khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 15 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng tăng thời gian cho người có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm tra, dự thảo kết luận kiểm tra; tăng thời gian cho đối tượng kiểm tra có ý kiến đối với dự thảo kết luận kiểm tra để bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tiễn, cụ thể:

  (i) Nếu như trước đây, Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc hoạt động kiểm tra, đoàn kiểm tra dự thảo kết luận kiểm tra và gửi cho đối tượng được kiểm tra thì hiện nay, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng tăng thời hạn đoàn kiểm tra dự thảo kết luận kiểm tra lên 01 tháng. Đồng thời, bổ sung trường hợp cần thiết thì có thể kéo dài để xử lý đối với một số cuộc kiểm tra có tính chất phức tạp, phạm vi rộng hoặc những trường hợp phát sinh từ yếu tố khách quan, người có thẩm quyền có thể gia hạn thêm không quá 02 tháng (điểm a khoản 7 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP).

  (ii) Tăng thời hạn để cơ quan, đơn vị được kiểm tra gửi lại đoàn kiểm tra ý kiến bằng văn bản đối với các nội dung trong dự thảo kết luận kiểm tra từ 05 ngày lên 15 ngày. Đồng thời, bổ sung trường hợp dự thảo kết luận kiểm tra phức tạp, có phạm vi rộng thì có thể kéo dài thêm nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được dự thảo kết luận kiểm tra.

  (iii) Tăng thời hạn ban hành kết luận cho người có thẩm quyền kiểm tra lên không quá 01 tháng, kể từ ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của cơ quan, đơn vị được kiểm tra đối với các nội dung trong dự thảo kết luận kiểm tra

  Câu hỏi 8. Quy định về kiến nghị của đoàn kiểm tra khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật, không phù hợp, mâu thuẫn tại khoản 6 Điều 15 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP nay được sửa đổi như thế nào?

  Trả lời:

Điểm đ khoản 7 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP bỏ quy định dẫn chiếu đến Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi tiến hành kiểm tra phát hiện văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan có nội dung trái pháp luật, không phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; mâu thuẫn, chồng chéo, hoặc không khả thi, không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội. Theo đó, trong trường hợp này, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP quy định “đoàn kiểm tra kiến nghị cơ quan ban hành văn bản thực hiện việc kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản theo quy định” để bảo đảm tính linh hoạt trong trường hợp văn bản được dẫn chiếu được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế. Hiện nay, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP cũng đã được thay thế.

  Câu hỏi 9. Việc tổ chức thực hiện kết luận kiểm tra theo Nghị định số 93/2025/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung như thế nào?

  Trả lời:

  Điểm a khoản 8 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung đoạn mở đầu của khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều 17 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP để bảo đảm tính hợp lý. Theo đó, ngay sau khi nhận được kết luận kiểm tra, cơ quan, đơn vị được kiểm tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện ngay kết luận kiểm tra. Việc thực hiện, báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra được quy định với khoảng thời gian cụ thể tại Điều 18 (báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra). Việc sửa đổi này nhằm bảo đảm tính logic trong trình tự, thủ tục kiểm tra.

  Câu hỏi 10. Quy định về báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra tại Điều 18 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo được Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung như thế nào?

  Trả lời:

Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 18 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng bổ sung thời hạn phù hợp để cơ quan, đơn vị được kiểm tra báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm tra để bảo đảm phù hợp trong thực tế. Theo đó, Nghị định số 19/2020/NĐ-CP trước đây chỉ quy định “Đối tượng được kiểm tra có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện kết luận kiểm tra theo thời hạn ghi trong kết luận kiểm tra hoặc khi nhận được yêu cầu của người có thẩm quyền ban hành kết luận kiểm tra”. Tuy nhiên, để bảo đảm rõ ràng cũng như để cơ quan, đơn vị được kiểm tra có khoảng thời gian hợp lý để thực hiện kết luận kiểm tra, khoản 9 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định này như sau: “Đối tượng được kiểm tra có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện kết luận kiểm tra trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày nhận được kết luận kiểm tra hoặc khi nhận được yêu cầu của người ban hành kết luận kiểm tra”.

Câu hỏi 11. Quy định về thẩm quyền theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra tại Điều 19 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP còn hiệu lực không?

  Trả lời:

Điều 2 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP bãi bỏ Điều 19 của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP. Lý do, hiện nay, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định Điều 20 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng quy định chung trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra của cơ quan, đơn vị được kiểm tra (tập trung tại Điều này). Mặt khác, nhằm đơn giản hoá trình tự, thủ tục theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra, Nghị định số 93/2025/NĐ-CP đã bãi bỏ các quy định về trình tự, thủ tục theo dõi, đôn đốc tại Điều 20 và Điều 21 của Nghị định 19/2020/NĐ-CP mà bản chất của trình tự, thủ tục này là thứ tự thực hiện các công việc tại nội bộ cơ quan, đơn vị được kiểm tra. Do đó, nội dung tại Điều 19 của Nghị định số 19/2020/NĐ-CP không còn phù hợp và không cần thiết được quy định tại Nghị định.

Câu hỏi 12. Việc theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra tại Điều 20 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi như thế nào?

  Trả lời:

Khoản 10 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 20 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng đơn giản hoá trình tự, thủ tục theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra (bãi bỏ các quy định về trình tự, thủ tục theo dõi, đôn đốc, bởi vì, bản chất của trình tự, thủ tục này là thứ tự thực hiện các công việc nội bộ của cơ quan kiểm tra). Theo đó, hiện nay, Điều 20 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung như sau:

  “1. Người có thẩm quyền kiểm tra theo quy định của Điều 6 của Nghị định này có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra của đối tượng được kiểm tra.

  2. Hoạt động theo dõi, đôn đốc được tiến hành thông qua việc yêu cầu đối tượng được kiểm tra báo cáo tình hình thực hiện kết luận kiểm tra và cung cấp tài liệu chứng minh. Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền kiểm tra gửi văn bản đôn đốc hoặc làm việc trực tiếp với đối tượng được kiểm tra.

  3. Căn cứ kết quả theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận kiểm tra, người có thẩm quyền kiểm tra theo quy định tại Điều 6 của Nghị định này tiến hành kiểm tra việc thực hiện kết luận kiểm tra theo quy định tại Điều 21 của Nghị định này.”.

Câu hỏi 13. Các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung như thế nào?

  Trả lời:

Khoản 12 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, cụ thể như sau:

  Thứ nhất, bổ sung các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính:         

  - Bổ sung các hành vi: (i) “Không lập biên bản vi phạm hành chính khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định pháp luật”; (ii) “Lập biên bản vi phạm hành chính không đúng thẩm quyền, không đúng hành vi vi phạm hành chính, không đúng đối tượng vi phạm hành chính”; (iii) “Vi phạm thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính” (tại các khoản 5, 6 và 7 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) để phù hợp với các quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính tại Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

  - Bổ sung hành vi “Vi phạm thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính” tại khoản 7 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) để phù hợp với khoản 2 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định này, “Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức liên quan nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của pháp luật”.

  - Bổ sung hành vi “Xác định không đúng hành vi vi phạm khi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính…” (tại khoản 10 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) để phù hợp với quy định của khoản 6 Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

  - Bổ sung hành vi “Không sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính hoặc không kịp thời sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính khi phát hiện có sai sót, vi phạm” (tại khoản 12 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) để thống nhất với các quy định về trách nhiệm sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính tại các điều 13, 14 và 15 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 68/2025/NĐ-CP).

  - Bổ sung hành vi “Không cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính” tại khoản 15 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) để bảo đảm tính đầy đủ.

  Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm tại các khoản 8, 9, 13, 18 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-) để bảo đảm phù hợp với Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính về các hành vi bị nghiêm cấm; đồng thời, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng tại Quy định số 131- QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán.

  Thứ ba, bãi bỏ hành vi “Ban hành trái thẩm quyền văn bản quy định về hành vi vi phạm hành chính; về thẩm quyền, thủ tục, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước và biện pháp xử lý hành chính” (trước đây được quy định tại khoản 17 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP) do khoản 6 Điều 15 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP đã có quy định về vấn đề này. Mặt khác, việc xử lý cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái thẩm quyền nên được thống nhất, xử lý chung theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định quy định chi tiết Luật này.

  Câu hỏi 14. Nguyên tắc áp dụng quy định về xử lý kỷ luật theo Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung như thế nào để đảm bảo thống nhất, đồng bộ?

  Trả lời:

Khoản 13 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 23 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP theo hướng viện dẫn việc áp dụng quy định về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thực hiện (hiện nay là Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 71/2023/NĐ-CP ngày 20/9/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức) để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.

  Câu hỏi 15. Hình thức xử lý kỷ luật gắn với hành vi vi phạm theo quy định tại Nghị định số 93/2025/NĐ-CP có thay đổi gì so với Nghị định số 19/2020/NĐ-CP?

  Trả lời:

  Từ khoản 14 đến khoản 21 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 23 đến Điều 29 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP về việc quy định các hình thức xử lý kỷ luật gắn với hành vi vi phạm cụ thể (đã được liệt kê tại Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 93/2025/NĐ-CP) theo hướng phân định thành 02 nhóm, cụ thể:

  - Đối với nhóm thứ nhất: Các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP mà có tính chất tương tự các hành vi quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP được quy định thống nhất với hình thức xử lý kỷ luật tương ứng tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP. Ví dụ: Tại khoản 8 Điều 8 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định hình thức xử lý khiển trách đối với cán bộ, công chức có hành vi “Vi phạm quy định của pháp luật về: đầu tư, xây dựng; đất đai, tài nguyên môi trường; tài chính, kế toán, ngân hàng; quản lý, sử dụng tài sản công trong quá trình thực thi công vụ”. Tại khoản 14 Điều 22 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP quy định hành vi “Sử dụng trái pháp luật tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, khoản 14 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP cũng quy định, đối với hành vi này sẽ áp dụng hình thức xử lý khiển trách để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Đối với nhóm hành vi này, việc quy định hình thức xử lý kỷ luật được xác định theo mức độ ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc vi phạm lần đầu, tái phạm.

  - Đối với nhóm thứ hai: Các hành vi vi phạm trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có tính chất đặc thù, cụ thể và trên cơ sở quy định về điều cấm, trách nhiệm, nghĩa vụ của người có thẩm quyền trong quá trình thực thi công vụ xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính (Nghị định số 112/2020/NĐ-CP không quy định cụ thể các hành vi này) để quy định tại Nghị định số 93/2025/NĐ-CP hình thức xử lý kỷ luật cụ thể tương ứng với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm đó.

  Cụ thể hóa nguyên tắc quy định như trên, các hình thức xử lý kỷ luật được sửa đổi, bổ sung như sau:

  - Hình thức xử lý kỷ luật khiển trách (Điều 24 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung theo khoản 14 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP): Áp dụng đối với các hành vi vi phạm có tính chất, mức độ, hậu quả ít nghiêm trọng hoặc hành vi có tính chất tương tự các hành vi quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP (đã được Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định từng hình thức xử lý kỷ luật gắn với hành vi vi phạm), gồm: Hành vi tại các khoản 1, 3, 6, 7, 9, 10, 13, 14, 15, 18 và 20 Điều 22 của Nghị định này và các hành vi: (i) Không kịp thời sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính khi phát hiện có sai sót, vi phạm; (ii) Thực hiện không đầy đủ, chính xác kết luận kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

  - Hình thức xử lý kỷ luật cảnh cáo (Điều 25 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung theo khoản 15 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP): Các hành vi vi phạm có tính chất, mức độ, hậu quả nghiêm trọng hơn các hành vi bị áp dụng hình thức xử phạt khiển trách, mang tính đặc thù riêng trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (các hành vi này Nghị định số 112/2020/NĐ-CP không quy định) thì sẽ áp dụng chế tài xử lý kỷ luật cảnh cáo là mức thấp nhất, gồm: Hành vi quy định tại các khoản 2, 4, 5, 8, 11, 16 và 17 Điều 22 của Nghị định này và các hành vi (i) Không sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính; (ii) Không thực hiện kết luận kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

  Hình thức kỷ luật cảnh cáo cũng áp dụng đối với nhóm hành vi đã bị áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách nếu tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.

  - Đối với các hình thức xử lý kỷ luật hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc (từ Điều 27 đến Điều 29 Nghị định số 19/2020/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung theo khoản 17, 18, 19 Điều 1 Nghị định số 93/2025/NĐ-CP): Các hành vi vi phạm bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lần lượt được xác định theo trường hợp tái phạm các hành vi bị xử lý kỷ luật trước đó (khiển trách hoặc cảnh cáo) hoặc vi phạm có mức độ, hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ bị xem xét, xử lý kỷ luật theo mức độ tăng dần tương ứng với từng hình thức kỷ luật là hạ bậc lương, giáng chức, cách chức và buộc thôi việc

 

Các tin cũ hơn

Lượt truy cập: 4470844
Trực tuyến: ...

TRANG THÔNG TIN VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Cơ quan chủ quản: UBND thành phố Hải Phòng

Cơ quan quản lý: Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng

Trưởng Ban biên tập: Ngô Quang Giáp

Liên hệ

 Địa chỉ: Tòa nhà E, Trung tâm Chính trị - Hành chính, Khu đô thị Bắc sông Cấm, phường Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

 Điện thoại: 0225.3846314

 Fax: 0225.3640091

 Email: sotp@haiphong.gov.vn